Quá trình hoạt động cách mạng Đỗ Quang Thắng

Ông tham gia cách mạng tháng 3 năm 1945, vào Đảng tháng 2 năm 1946.

Từ tháng 2 năm 1946 đến tháng 9 năm 1946: là Phó Bí thư Chi bộ, Thường vụ Việt Minh xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Từ tháng 10 năm 1946 đến tháng 8 năm 1947: là Huyện ủy viên Huyện ủy Đức Phổ, Thường vụ Việt Minh huyện, sau được cử đi học Trường Trung học bình dân miền Nam Trung Bộ.

Từ tháng 9 năm 1947 đến tháng 8 năm 1964, ông được giao đảm nhận các chức vụ: Bí thư Ban cán sự Đảng huyện Nam An Khê, Phó Bí thư liên huyện Đắk Bớt, tỉnh Gia Lai; Tỉnh ủy viên dự khuyết, Bí thư Huyện ủy Đắk Bớt; tham gia Ban cán sự Tây Quảng Nam, làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng; tham gia Tỉnh ủy và là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng; Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai, Chính trị viên Tỉnh đội Gia Lai; cán bộ nghiên cứu Trung ương cục miền Nam, Chánh Văn phòng Khu ủy Khu 10; Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng (cũ).

Từ tháng 8 năm 1964 đến tháng 10 năm 1966: đồng chí công tác tại Khu ủy Khu 6, làm Chánh Văn phòng Khu ủy.

Từ tháng 11 năm 1966 đến tháng 1 năm 1976: Ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy Khu 10, Trưởng ban Dân vận Khu 10, Ủy viên Thường vụ Khu ủy Khu 6, Chánh Văn phòng Khu ủy.

Từ tháng 2 năm 1976 đến tháng 9 năm 1979: là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Lâm Đồng (mới).

Từ tháng 10 năm 1979 đến tháng 7 năm 1991: ông được bầu giữ các chức vụ: Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng (năm 1983), Bí thư Tỉnh ủy Nghĩa Bình, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi.

Từ tháng 7 năm 1991 đến tháng 12 năm 1993: ông là Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1 năm 1994), ông được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

Ông là đại biểu Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (khóa IX).

Từ tháng 7 năm 1996 đến năm 2009: ông nghỉ hưu tại Quảng Ngãi và thành phố Hồ Chí Minh.